Tin tức và sự kiện

Nhận 3 trường hợp tự tử bằng thuốc trừ sâu nhóm phosphor hữu cơ

   Nhận 3 trường hợp tự tử bằng thuốc trừ sâu nhóm Phosphor hữu cơ

     Ngộ độc – một lĩnh vực khoa học dường như còn nhiều bí mật,gây khó khăn trong thực tế chăm sóc sức khỏe con người. Các tác nhân gây độc bao gồm các nhóm như: các thuốc sử dụng trong y tế, Tây y, Đông y, thuốc lạm dụng và quá liều; các hóa chất dùng trong Công nghiệp, Nông nghiệp; các hợp chất tự nhiên và các mối tương tác khác.

Ngộ độc xảy ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau :tai nạn, vô tình, chủ ý, hay không mong muốn. Các triệu chứng và dấu hiệu của ngộ độc dễ thay đổi là những sự kiện thách thức cho người thầy thuốc tinh thông nghiệp vụ, đặc biệt khi người bệnh có rối loạn ý thức hay khi không rõ tiền sử về ngộ độc. Những năm qua gần đây, các yếu tố rủi ro do ngộ độc và số người ngộ độc gia tăng là do sự tăng nhanh các hóa chất: hóa chất bảo vệ thực vật và các loại thuốc trên thị trường, nhiều đồng nghiệp trong các cơ sở y tế phải đương đầu với nhiều bệnh nhân ngộ độc trong một hoàn cảnh lung túng, khó khăn, bởi thiếu các thông tin về ngộ độc, thiếu các phương tiện chẩn đoán và điều trị.

Phạm vi bài viết hôm nay xin được giới thiệu với các bạn đồng nghiệp, các bạn đọc về những bệnh nhân ngộ độc cấpđã nhập viện điều trị tại khoa HSCC Bệnh viện Đa khoa Tri Tôn từ đầu năm đến nay.

Tổng số người mắc bệnh là 21, trong đó Ngộ độc nấm độc 02, thức ăn tự gia đình chế biến 04, còn lại do tự tử bằng thuốc tân dược 04, bằng thuốc bảo vệ thực vật 11 cas ( 03 cas nhóm Paraquat, 04 cas nhóm phospho  hữu cơ, 04 cas nhóm khác).

Các trường hợp ngộ độc Paraquat  đều được chuyển lên tuyến trên và đã tử vong, 01 ca ngộ độc phospho chuyển viện theo yêu cầu của thân nhân, còn lại các trường hợp điều trị thành công.

Riêng 3 ca ngộ độc phosphor được  điều trị theo phác đồ như sau:

   Cơ chế tác dụng của thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ

   Cơ chế gián tiếp:

     Thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ vào cơ thể phối hợp với acetylcholinestérase thành một phức thể bền, tốc độ phân li xem như bằng không. Do đó acetylcholinestérase mất hẳn tác dụng thủy phân Acetylcholine.

     Acetylcholinestérase bị bất hoạt hóa, chỉ được bù lại do sự tân tạo Acetylcholinestérase, sự tái tạo này xảy ra rất chậm sau nhiều ngày, có thể hàng tuần, thậm chí hàng tháng.

     Acetylcholine không được Acetylcholinestérase bất hoạt hóa, tích tụ lại ở những nơi bình thường nó được tiết ra trong trạng thái bị kích thích cũng như trong trạng thái nghĩ đó là:

     Giao thoa thực hành của toàn hệ đối giao cảm.

     Giao thoa hạch giao cảm (cả trực và đối giao cảm) và tấm vận động.

     Giao thoa liên thần kinh trung ương.

   Cơ chế tác dụng trực tiếp:

     Trên các vị trí tiếp thụ Acetylcholine. Nếu thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ nồng độ cao và tác dụng kéo dài thì có thể làm cho tấm vận động thoái hóa khó hồi phục.

     Kết quả tác dụng của thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ

     Do cơ chế tác dụng ức chế men cholinesterase không hồi phục, phospho hữu cơ tạo ra 3 loại tác dụng sau:

   Tác dụng dạng Muscarine:

     Là kết quả tác dụng kích thích lên các giao thoa thực hành đối giao cảm gây ra những dấu chứng hưng phấn đối giao cảm trên các cơ trơn, các tuyến, tim...Hệ thần kinh trung ương chịu tác dụng này không đặc hiệu. (Kích thích hay ức chế)

   Tác dụng dạng Nicotine:

     Là kết quả tác dụng trên các giao thoa hạch giao cảm và tấm vận động cơ vân trong đó quan trọngnhất là cơ hô hấp. Tác dụng Nicotine có tính kích thích lúc ban đầu, kéo dài một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại làm liệt các cơ quan chịu ảnh hưởng khi sự nhiễm độc nặng và kéo dài.

   Tác dụng trên thần kinh trung ương:

     Có tính kích thích rồi làm liệt khi cường độ và thời gian nhiễm độc tăng. Quan trọng nhất là tác dụng trên các trung tâm sinh thực.

     Tác dụng dạng Muscarine được trung hòa dễ dàng bởi Atropine, ít chịu ảnh hưởng của các oximes.

     Tác dụng Nicotine chịu ảnh hưởng rất ít của Atropine và Oximes trừ tấm vận động, chịu ảnh hưởng rất tốt của Oximes.

     Tác dụng thần kinh trung ương chịu ảnh hưởng khá tốt của Atropine, không chịu tác dụng của Oximes.

     Trong cơ thể chúng bị thoái biến bởi các men thủy phân và oxy hóa, nhất là trong gan, nhưng sự thoái biến này rất chậm. Đối với chất phospho hữu cơ đã phối hợp với Acetylcholinestérase, chỉ thải dưới dạng đã thoái biến thành Paranitrophenol.

   Độ trầm trọng của sự nhiễm độc:

     Càng nặng thì thời gian tiềm tàng càng ngắn. Ví dụ ngộ độc trung bình thì các triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện sau 1 giờ, nhưng những trường hợp nặng thì ngắn hơn chỉ sau 15- 30 phút và trong trường hợp rất nặng nhiều lúc chỉ 30 phút đến 1 giờ bệnh nhân đã chết.

     Thể trạng bệnh nhân:

     Càng nhỏ tuổi thời gian tiềm tàng càng ngắn (vì nồng độ AchE kém). Người già triệu chứng ngộ độc càng nặng hơn.

   Yếu tố nhiễm mạn:

     Người đã bị ngộ độc nhẹ tiềm tàng trước đó cũng bị trúng độc nhanh hơn. Người đã bị ngộ độc mạn tính, dấu nhiểm độc nhanh và nặng hơn nếu có nhiễm cấp.

   Bụng đói, uống rượu:

     Cũng làm trúng độc bằng đường tiêu hóa xảy ra nhanh hơn.

   Phối hợp nhiều đường nhiễm độc:

     Làm ngắn thời gian tiềm tàng.

     Thứ tự xuất hiện các dấu chứng

     Dấu chứng dạng Muscarine xuất hiện trước tiên. Dấu chứng dạng Nicotine và thần kinh trung ương thường khó phân tách hơn, xuất hiện chậm hơn. Nhưng nếu trúng độc trầm trọng thì cả 3 loại dấu chứng xuất hiện đồng thời.

     Các dấu chứng trên các cơ quan

Mắt:

Có dấu Muscarine rõ nhất, sung huyết kết mạc, teo đồng tử có thể rất mạnh bằng đầu kim găm, nhưng vẫn còn đáp ứng với ánh sáng, hổn loạn điều tiết, giảm áp lực nội nhãn. Dấu teo đồng tử là dấu Muscarine rất nhạy nên có thể là một trong những dấu để đánh giá độ trầm trọng lúc ban đầu, trừ trường hợp mắt bị tác dụng trực tiếp của trừ sâu do thuốc bắn trực tiếp vào mắt thì dấu này sớm và nặng nhưng có thể dấu nhiểm độc toàn thân không nặng.

Da:

Cũng là nơi biểu hiện dấu dạng Muscarine rõ, sung huyết, chảy mồ hôi.

Tiêu hóa:

Dấu chứng dạng Muscarine. Tiết nước bọt rất nhiều, tăng tiết dịch tiêu hóa nhất là dịch dạ dày, tăng nhu động, co thắt trơn tiêu hóa gây đau quặn bụng, khó nuốt, buồn nôn, nôn. Nếu trúng độc trầm trọng có ảnh hưởng đến thần kinh trung ương thì có dấu đại tiện vô ý thức.

Dấu hô hấp:

Biểu hiện 3 loại tác dụng: Muscarine, Nicotine, thần kinh trung ương. Tác dụng muscarine làm tăng tiết dịch phế quản gây ho, tăng tiết đàm giãi, bít phế quản gây khó thở, nghe ran nổ ướt to nhỏ hạt, đồng thời làm co thắt cơ trơn phế quản gây khó thở thêm.

Tác dụng Nicotine giai đoạn làm liệt sẽ làm liệt cơ hô hấp gây suy hô hấp nặng. Tác dụng này cũng làm nhũn lưỡi gây tụt lưỡi làm bít đường hô hấp.

Tác dụng thần kinh trung ương giai đoạn liệt sẽ làm liệt trung tâm hô hấp, tăng các tác dụng nói trên.

Suy hô hấp cấp, đó là biểu hiện tất nhiên của trúng độc nặng, là nguyên tử vong chính.

Dấu tuần hoàn:

Cũng biểu hiện phối hợp 3 loại tác dụng. Tác dụng Muscarine làm mạch chậm, huyết áp hạ.

Tác dụng Nicotine và thần kinh trung ương: gây cường trực giao cảm và kích thích các trung tâm điều hòa tim mạch, ít nhất là trong giai đoạn kích thích đưa đến mạch nhanh, huyết áp cao. Trong giai đoạn liệt của tác dụng Nicotine, thần kinh trung ương, các dấu chứng có thể ngược chiều trở lại đó là trụy tim mạch.

Dấu cơ vân:

Biểu hiện tác dụng Nicotine và thần kinh trung ương.

Giai đoạn kích thích:

Rung cơ, thật sự là rung các thớ cơ là một dấu chứmg quan trọng cho biết trúng độc khá trầm trọng, cần tìm kỹ để phát hiện nhất là cơ ngực,bụng, cánh tay, vai và đùi. Cần phân biệt với rung cơ vì lạnh.

Giai đoạn liệt cơ: yếu cơ rồi đến liệt cơ, quan trọng nhất là cơ hô hấp làm ngừng thở. Nếu trúng độc kéo dài, làm tấm vận động bị thoái hóa thì liệt cơ sẽ kéo dài rất lâu.

Dấu thần kinh trung ương:

Biểu hiện do cả 3 loại tác dụng.

Muscarine và Nicotine gây thiếu khí não, và tác dụng thần kinh trung ương trực tiếp của phospho hữu cơ.

Trong giai đoạn đầu là kích thích, bất an, co giật.

Trong giai đoạn cuối, giảm phản xạ gân xương, rồi mất phản xạ, hôn mê, liệt các trung tâm thần kinh sinh thực.

Sốt có thể dấu chứng nhiểm độc thần kinh trung ương của phospho hữu cơ.

Tiến triển

Không điều trị

Có thể tự lành nếu trúng độc nhẹ. Nhưng nếu là trúng độc khá nặng thì các dấu chứng sẽ tăng dần đưa đến hôn mê, suy hô hấp và chết.

Có điều trị đúng mức

Các dấu Muscarine giảm và biến mất trước, sau đó hai dấu chứng Nicotine và thần kinh trung ương cũng thuyên giảm dần. Nhưng nếu trúng độc quá trầm trọng hay điều trị chậm, thì ban đầu các dấu chứng Muscarine giảm, bệnh nhân có thể tỉnh lại, nhưng sau đó các dấu Nicotine và thần kinh trung ương ngày càng nặng và đưa đến suy hô hấp và tử vong.

Nguyên nhân tử vong chính là suy hô hấp trong hầu hết các trường hợp.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Căn cứ vào hỏi bệnh, hỏi thân nhân bệnh nhân nhất là dựa vào mùi hôi đặc biệt của thuốc trừ sâu trong hơi thở, trong chất mửa, trên áo quần, da bệnh nhân, dựa vào các dấu chứng lâm sàng đặc hiệu, nhất là dấu Muscarine có phối hợp hay không với dấu Nicotine và thần kinh trung ương.

Cận lâm sàng cần cho những trường hợp nhẹ, không rõ loại ngộ độc bằng cách định lượng  butyrocholinestérase  trong  huyết  tương  hay  Acetylcholinestérase  trong  hồng huyết cầu. Hai tỉ lệ này giảm. Thật ra, sự giảm hai tỉ lệ này không phản ánh trung thực, mà tỷ Acetylcholinestérase trong các mô là tỷ quyết định độ trầm trọng của sự trúng độc: Tỉ cholinesterase giảm < 30% là ngộ độc nhẹ, 50% là ngộ độc vừa, giảm > 70% là nặng.

Chẩn đoán độ trầm trọng

Thể trạng bệnh nhân.

Đường nhiễm độc. Nhất là đường uống và bụng đói.

Lượng thuốc đã xâm nhập cơ thể.

Điều kiện trúng độc (tự độc, hay ngộ độc).

Thời gian từ lúc nhiễm độc đến lúc được loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể (súc dạ dày) và được điều trị đúng mức.

Điều trị tuyến dưới tốt hay không.

Nói tóm lại, tất cả những điều kiện nào làm cho lượng thuốc ngấm vào cơ thể càng lớn, điều trị đúng mức càng chậm, càng làm độ trầm trọng tăng thêm.

Chẩn đoán độ trầm trọng còn căn cứ vào dấu lâm sàng, các dấu Nicotine và thần kinh trung ương nặng thì độ trầm trọng càng cao.

Sự giảm tỷ butyrocholinesterase và Acetylcholinesterase không phản ánh hoàn toàn trung thực độ trầm trọng.

Trong thực tế, hỏi bệnh nhân và khám lâm sàng kỹ có thể ước tính độ trầm trọng khá đúng đắn.

Nhẹ: Muscarine nhẹ hay đơn thuần.

Vừa: Muscarine nặng + dấu Nicotin và dấu TK trung ương vừa.

Nặng: Nicotin và thần kinh trung ương nặng, dấu muscarine có thể có hay không. Hoặc dấu trúng độc vừa + yếu tố nặng do hỏi bệnh.

Chẩn đoán phân biệt

Ngộ độc DDT (Dichloro-Diphényl-Trichloetan):

Là chất dẩn xuất của clorobenzen, không thấm qua da chỉ thấm qua niêm mạc tiêu hóa. Triệu chứng ngộ độc là gây rối loạn tiêu hóa, xuất hiện 1-6 giờ sau như nôn mữa, ỉa chảy, đau bụng. Tác dụng trên hệ thần kinh, gây nhức đầu, dị cảm, run, co giật, cường độ co giật tùy thuộc vào nồng độ DDT trong não. Dấu từ nhẹ đến nặng là rung cơ, tăng phản xạ, co cứng toàn thân, co giật, suy hô hấp, ngừng thở, ngừng tim và chết.

Ngộ độc 666:

Là dẫn xuất của Cyclo hexan,cũng gây các triệu chứng nhiểm độc giống như DDT, nhưng thời gian tiềm tàng ngắn hơn.

Ngộ độc Carbamate:

Lâm sàng giống ngộ độc phosphore hữu cơ. Cơ chế cũng giống. Điều trị bằng Atropin, nhưng không dùng PAM vì làm nặng thêm tình trạng ngộ độc.

Điều trị

Nguyên tắc điều trị

Xác định độc chất: để xác định có phải là Phospho hữu cơ hay không cần dựa vào hỏi bệnh nhân, người nhà hoặc người chung quanh; đây là loại thuốc diệt sâu bọ khác với các loại thuốc khác thường dụng hiện nay là thuốc diệt nấm và thuốc diệt cỏ. Tên thuốc thường dựa vào bảng danh mục các thuốc phospho hữu cơ thường bày bán trên thị trường. Màu sắc, mùi vị và cấu tạo của thuốc: Thường trình bày dưới dạng lỏng, có màu trắng nhất là khi hoà với nước có màu trắng đục như sửa và có mùi nồng nặc rất đặc biệt, khác với mùi của các loại thuốc sát trùng khác.

Giới hạn lượng chất độc hấp thu vào cơ thể và loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể.

Trung hòa tác dụng của thuốc độc đã được hấp thu.

Phóng thích Acetylcholinesterase khỏi phức thể Acetylcholinesterase-Phosphore hữu cơ.

Điều trị triệu chứng nhiều lúc rất quan trọng và có thể cứu sống bệnh nhân như động kinh, tụt huyết áp, ngừng thở bằng thở máy.

Điều trị cụ thể

Loại bỏ chất độc:

Súc rửa dạ dày: Súc rửa càng sớm càng tốt. Thực hiện trước 6 giờ kể từ khi bị nhiễm độc.

Bệnh nhân không mê.

Trước khi rữa phải tiêm Atropine trước, liều thích hợp với độ trầm trọng thường là 2mg và cần thực hiện ít nhất là 4 phút (nếu tiêm tĩnh mạch) và 10 phút (nếu tiêm bắp), vì khi rữa dạ dày có thể làm tăng trạng thái cường đối giao cảm sẵn có và gây phản xạ ức chế chết người.

 Rữa dạ dày phải được thực hiện nhẹ nhàng, tránh tăng kích thích đối giao cảm thêm. Dùng nước pha Bicarbonate, lượng nước súc khá nhiều cho đến khi hết mùi hôi. Thường có thể đến vài chục lít nước súc rửa dạ dày.

Atropine liều cao dùng sớm:

Cơ chế tác dụng: Atropine là thuốc ức chế đối giao cảm hiệu quả nhất trong trúng độc cấp thuốc trừ sâu gốc photpho hữu cơ.

Atropine có tác dụng:

Đối kháng mạnh trên các dấu chứng dạng Muscarine biểu hiện các cơ quan thực hành ngoại biên.

Tác dụng đối kháng yếu hơn trên dấu chứng thần kinh trung ương, trên các dấu chứng dạng Nicotine ở hạch giao cảm, và hoàn toàn vô hiệu đối với sự liệt cơ vân do tác dụng tại tấm vận động.

Tốc độ tác dụng: Liều trung bình 2mg Atropine Sulfate hay Tartrate tiêm bằng đường tĩnh mạch: 1 phút sau bắt đầu có tác dụng, nếu tiêm bắp hay dưới da thì 8 phút sau, và đạt tác dụng tối đa sau 6 phút đối với tiêm tĩnh mạch và 35 phút nếu tiêm bắp hay dưới da.

Thời gian và liều lượng dùng Atropine: Khi sự trúng độc đã được xác định, thì tiêm

Atropine càng sớm càng tốt.

Trúng độc nhẹ: Dù chưa có dấu chứng trúng độc vẫn tiêm bắp 1-2mg Atropine, lặp lại nếu cần cách nhau 30 phút. cho đến khi hết dấu chứng Muscarine và có dấu no Atropine. Sau đó duy trì trạng thái no Atropine nhẹ vừa trong 24 giờ hay hơn. Chú ý: giảm liều trước, giảm thời gian sau.

Khi trúng độc vừa: tiêm tĩnh mạch 3-5mg Atropine, lặp lại liều 2-4mg cách nhau khoảng 10-15 phút cho đến khi dấu chứng Muscarine biến mất và có no Atropine nhẹ. Sau đó duy trì Atropine nhẹ hoặc vừa trong vòng 48 giờ hay hơn.

Trúng độc nặng: Nhất là khi có khó thở, co giật, hoặc hôn mê thì tiêm tĩnh mạch 5 đến 8mg Atropine ngay. Lặp lại liều 5mg cách khoảng 5-8 phút cho đến khi hết co giật và giảm tiết dịch phế quản và tiết nước bọt. Sau đó trở lại phát đồ điều trị trúng độc nặng vừa, cho đến khi hết dấu chứng Muscarine và có no Atropine. Duy trì trạng thái Atropine vừa hoặc nhiều trong vòng 48 giờ hay hơn.

Đáp ứng với Atropine và theo dõi bệnh nhân: Atropine liều cao dùng sớm cải thiện rõ bệnh cảnh lâm sàng, làm mất dấu Muscarine, cải thiện thông khí phổi, làm chậm sự liệt trung tâm thần kinh nên cải thiện được hôn mê, co giật và khó thở, nhưng trong những trường hợp rất nặng, thì sự cải thiện chỉ nhất thời. Bệnh nhân sau đó bị liệt hô hấp và Atropine hoàn toàn vô hiệu đối với sự liệt tấm vận động.

Đối với những trường hợp trúng độc vừa hay nặng, khi sử dụng Atropine liều cao, cần theo dõi bệnh nhân thật sát để điều chỉnh liều lượng, để phát hiện dấu chứng báo hiệu tăng độ trầm trọng trở lại, khi giảm liều Atropine. Theo dõi sát sẽ phát hiện sự tái xuất hiện các dấu chứng trúng độc.

Trúng độc Atropine:

Trúng độc nhẹ: khô miệng, môi, họng, gây khó nuốt, cảm giác nóng chủ quan, mặt phừng đỏ, tim nhanh, khó tiểu, giãn động tử, làm nhìn gần khó.

Trúng độc vừa: các dấu chứng trên tăng nhiều đặc biệt nhiệt độ ngoại biên tăng cao, buồn ngủ nhiều, bón, bí tiểu, chóng mặt, bất an, nói nhiều.

Trúng độc nặng: ngoài những dấu chứng trên, dấu chứng thần kinh trung ương nặng, rõ hơn với sốt cao, mất định hướng, ảo giác dấu chứng tâm thần, quá kích thích, nói sảng chạy bậy.

Nguyên tắc giảm liều Atropine: Cần giảm liều từ từ và theo dõi sát các dấu Muscarine tái phát hoặc xuất hiện dấu Nicotine nặng; do đó cần giảm theo kiều bậc thang nhỏ và cần giảm liều trước khi giảm lần tiêm Atropine.

Pralidoxime (P2AM = Pyridine 2 - Aldoxine Methiodide):

Cơ chế tác dụng: Pralidoxime có đặc tính tác dụng với phức thể AchE - PHC để kết hợp với phospho hữu cơ giúp giải phóng AchE tự do tái hoạt động. Nhưng oximes cần được dùng sớm thì mới hiệu quả. Tác dụng oximes rõ nhất trên tấm vận động.

Tốc độü tác dụng: Tiêm tĩnh mạch, P2AM có tác dụng rất nhanh, yếu cơ và rung cơ giảm chỉ sau 5-30 giây, tối đa sau 5-10 phút.

Thời gian và liều lượng dùng: P2AM được tiêm trước 36 giờ. Tiêm tĩnh mạch 1000- 2000mg chậm (500mg/phút) có thể lặp lại nhiều lần. Tuy nhiên trong trường hợp trúng độc nặng và có nguồn phospho tích luỹ lâu trong cơ thể như trong trường hợp trúng độc qua đường tiêu hoá được súc rửa chậm thì có thể dùng PAM liều cao và kéo dài đến 5-7 ngày. Trong trường hợp trúng độc vừa thì liều PAM là 2 đến 4 gam/ ngày bằng đường tỉnh mạch chia làm 4 lần. Trong trường hợp trúng độc nặng và có nguồn tích luỹ thì dùng liều cao phối hợp tiêm và chuyền qua đường tỉnh mạch để duy trì liều cao của PAM trong máu, liều thường dùng là 6 đến 8 gam/ ngày và kéo dài hàng tuần.

Đáp ứng với P2AM: dấu chứng thuộc tấm vận động đáp ứng tốt nhất.

Hỗ trợ hô hấp:

Khai thông đường hô hấp: hút đờm giải khí có dấu suy hô hấp dù nhẹ, nếu ít đáp ứng điều trị thì nên đặt ống nội khí quản.

Thở Oxy: khi có suy hô hấp cung lượng cao 8-10L/phút hay 3-4L/phút tùy theo độ trầm trọng (nếu có suy hô hấp mạn thì thở oxy cung lượng thấp 1-3L/phút.)

Hô hấp nhân tạo: là phương tiện điều trị cần thiết trong những trường hợp nặng, đáp ứng không hoàn toàn với điều trị, suy hô hấp cấp. Hô hấp nhân tạo cần được kéo dài rất lâu có thể 2-3 tuần. Do đó cần phải có máy thở mới đảm bảo hô hấp nhân tạo tốt và kéo dài, cần khai thông khí quản và cho thở máy đúng lúc và kịp thời.

Cấm dùng Aminophylline hay thuốc tương tự vì Aminophylline có tác dụng phụ là gây nôn mữa, chóng mặt, hỗn loạn tinh thần, co giật hạ huyết áp.

Các biện pháp điều trị khác:

Chống sốc: bằng những phương tiện thường lệ dè dặt khi dùng các thuốc tăng huyết áp. Kinh nghiệm cho thấy nếu giải quyết tốt các khâu khác thì vấn đề chống sốc ít được đặt ra. Nếu tụt huyết áp cần bù dịch đủ và cho thuốc nâng huyết áp như Dopamine và Dobutamine.

Truyền dịch: không nhằm thải chất độc mà chỉ nhằm chống sốc nếu có, bù lượng nước mất qua mồ hôi, mửa, tiết dịch và nuôi dưỡng. Loại dịch và lượng dịch truyền sẽ thay đổi tùy theo nhu cầu. Truyền dịch cũng là một phương tiện để đưa Atropine vào cơ thể và để nuối dưởng bệnh nhân.

Chống co giật: bất an, lo lắng, có thể dùng thuốc chống động kinh như diphénylhydantoine, các thuốc an thần nhẹ, tránh làm liệt các cơ quan thần kinh sinh thực. Cấm dùng Morphine vì làm suy hô hấp mà thường đã được làm dể do hội chứng Muscarine..

Dự phòng bội nhiễm: nhất là ở phổi nên dùng kháng sinh có hoạt phổ rộng như nhóm Céphalosporine thế hệ 3 như Cefotaxime, Ceftriazone liều 2-3 gam/ ngày hoặc Quinolone thế hệ 2 như Ofloxacine hoặc Ciprofloxacine bằng đường chuyền tỉnh mạch.

Chống các thức ăn có chứa lipide như sữa vì làm giă tăng sự hấp thu của thuốc.

Theo dõi bệnh nhân

Theo dõi thật sát không những khi bệnh nhân hôn mê, mà ngay cả khi tỉnh, có đáp ứng điều trị.

Theo dõi phát hiện các dấu chứng và biến chứng nặng xuất hiện, hay các dấu chứng nặng tái xuất hiện trở lại sau khi giảm liều Atropine, để có thái độ xử trí kịp thời.

Phòng ngừa:

Quản lý chặt chẽ sự phân phối và xử dụng thuốc trừ sâu gốc phosphore hữu cơ.

Phổ biến rộng rãi các khái niệm về độc tính của thuốc cho dân chúng nhất là nông dân và những người bảo quản thuốc.

Phổ biến các nét lớn về điều trị xuống tận tuyến dưới. Nhất là việc súc rữa ruột và điều trị sớm bằng atropine bằng liều cao.

Tiên lượng:

Nếu được điều trị sớm, đúng mức, thì những trường hợp nhẹ vừa có tiên lượng tốt, nhưng tiên lượng những trường hợp nặng vẫn xấu, nhất là có suy hô hấp kéo dài. Những trường hợp trúng độc nặng và cấp bệnh nhân hôn mê và rối loạn trung tâm sinh thực rất sớm gây tử vong nhanh làm không kịp hồi sức thường là chết tại chổ hay trên đường di chuyển bệnh nhân đến bệnh viện với ngừng tim, ngừng thở.

Kết luận:

Trúng độc cấp thuốc trừ sâu gốc photpho hữu cơ là một cấp cứu nội khoa trầm trọng, cần được đánh giá đúng mức về độ trầm trọng, xử trí, đúng mức thật sớm với các biện pháp loại bỏ chất độc. Atropine liều cao, tái lập nhiều lần, P2AM liều cao và liên tục đồng thời cần phối hợp và hỗ trợ hô hấp nhân tạo nhất là thở máy kéo dài để chông suy hô hấp và ngừng thở. Ngoài ra các biện pháp chống choáng, ngăn ngừa bội nhiễm và nuôi dưỡng cũng là những biện pháp hỗ trợ quan trọng giúp cứu sống bệnh nhân.

Nhận xét:

Các trường hợp ngộ độc nhập khoa đã điều trị thành công nhờ vào sự phát hiện sớm của thân nhân kịp thời đưa đến cấp cứu từ Khoa Khám bệnh khẩn trương tích cực súc rửa dạ dày, khoa HSCC tuân thủ phác đồ trên, theo dõi tốt bệnh nhân…

Tuy nhiên trong quá trình điều trị cũng không phải luôn dễ dàng, những lúc bệnh nhân có dấu ngấm atropin thân nhân cũng như thầy thuốc thường xuyên túc trực theo dõi cực khổ biết bao…

Qua đó chúng tôi khi trực tiếp giành lại sự sống của những người muốn chết đã có lời khuyên bệnh nhân này hãy sống vì trách nhiệm, vì sự mai mắn đã được làm người… không nên vì phút giây nông nổi làm tổn hại bản thân, làm ảnh hưởng xấu đến tinh thần và vật chất với người thân, với xã hội… bởi vì sức khỏe và sinh mạng vô cùng quí giá đừng bao giờ lãng phí một cách vô ích.

Khoa HSCC-Bệnh viện Đa khoa Tri Tôn

CÁCH PHÒNG BỆNH ĐAU MẮT ĐỎ

BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ CÁCH PHÒNG BỆNH

ĐAU MẮT ĐỎ

   Bệnh đau mắt đỏ rất thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Có những loại nguy hiểm cần điều trị gấp, nhưng cũng có loại nhẹ chỉ thoáng qua mà không cần điều trị. Hiện nay ở nước ta có 6 tỉnh có số ca mắc bệnh đau mắt đỏ chiếm tỷ lệ cao là: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng trị, Quảng Bình, Bình Định. Gần đây nhất là  huyện Phổ Yên, Thái Nguyên cũng đã xuất hiện một số ca bị mắc bệnh đau mắt đỏ. Để chủ động trong việc phòng chống dịch Ban sức khoẻ trường THCS Tiên Phong triển khai tới toàn thể các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh của trường các dấu hiệu nhận biết và cách phòng bệnh đau mắt đỏ.

     1. Đau mắt đỏ là gì?

    Đau mắt đỏ còn gọi là viêm kết mạc. Nguyên nhân của đau mắt đỏ thường là nhiễm vi khuẩn, virut hoặc phản ứng dị ứng... Mặc dù đau mắt đỏ gây kích thích mắt nhưng hiếm khi ảnh hưởng đến thị lực. Vì đau mắt đỏ có nguy cơ lây nhiễm cao trong vòng 2 tuần từ khi bị bệnh nên việc chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng.

      2.Triệu chứng.

    Triệu chứng của đau mắt đỏ thường là: đỏ một hoặc cả hai mắt; ngứa một hoặc cả hai mắt; cảm giác có sạn ở trong mắt; rỉ dịch ở một hoặc hai mắt; chảy nước mắt. đau mắt đỏ làm cho bạn có cảm giác như có một vật gì ở trong mắt mà không thể lấy ra được. Khi thức dậy mắt bị dính chặt lại do màng dử mắt.

    Viêm kết mạc thường bị cả hai mắt mặc dù bệnh có thể xảy ra ở một mắt sau đó lây sang mắt kia sau một hoặc hai ngày. Bệnh có thể không cân xứng, một mắt nặng hơn mắt kia.

      3.Cách phòng bệnh

    Để chủ động phòng bệnh, cộng đồng cần thực hiện tốt các khuyến cáo sau:

       1.Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Rửa mặt hằng ngày bằng khăn mặt riêng với nước sạch.

       2.Vệ sinh mắt, mũi, họng hàng ngày bằng các thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi, nước súc họng thông thường.

       3.Sử dụng xà phòng hoặc các chất sát khuẩn thông thường sát trùng các đồ dùng, vật dụng của bệnh nhân.

       4.Không đưa tay lên dụi mắt, mũi, miệng. Không dùng chung lọ thuốc nhỏ mắt, vật dụng cá nhân dễ bị nhiễm mầm bệnh như khăn mặt, kính mắt.

       5.Hạn chế tiếp xúc với bệnh nhân hoặc người nghi bị đau mắt đỏ.

      6.Người bệnh hoặc người nghi bị đau mắt đỏ cần hạn chế tiếp xúc với người khác và đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn, điều trị kịp thời. Không tự ý điều trị khi chưa có hướng dẫn của cán bộ y tế./.

CHUNG TAY BẢO VỆ SỰ SỐNG “HÃY VỆ SINH TAY”

CHUNG TAY BẢO VỆ SỰ SỐNG “HÃY VỆ SINH TAY”

Là một phần trong nỗ lực toàn cầu nhằm tăng cường vệ sinh bàn tay trong y tế do TCYTTG tổ chức để hỗ trợ nhân viên y tế, chiến dịch thường niên toàn cầu “BẢO VỆ SỰ SỐNG: Hãy vệ sinh tay” được phát động từ năm 2009 và là sự mở rộng tất nhiên của hoạt động “Thách thức Toàn cầu Đầu tiên về An toàn người bệnh: Chăm sóc sạch là Chăm sóc an toàn” của TCYTTG.

Chiến dịch này được tổ chức nhằm thúc đẩy hành động tại cơ sở y tế để chứng minh vệ sinh tay là bước khởi đầu để giảm thiểu nhiễm khuẩn bệnh viện và đảm bảo an toàn người bệnh. Chiến dịch cũng nhằm chứng tỏ cam kết của thế giới đối với lĩnh vực ưu tiên này trong y tế.

Vai trò của TCYTTG bao gồm khuyến khích sự tham gia và hành động để duy trì phong trào toàn cầu này. Con số cơ sở y tế tham gia là một cơ chế nâng cao nhận thức lớn, và điều đó được thể hiện ở số lượng ngày càng nhiều cơ sở y tế đăng ký tham gia chiến dịch “BẢO VỆ SỰ SỐNG: Hãy vệ sinh tay” hai năm sau khi phát lời kêu gọi hành động, song con số cơ sở y tế tham gia không phải là đích cuối cùng.

Thông tin cơ sở

Hưởng ứng tuyên truyền theo Tổ chức y tế thế giới trong việc “Chung tay bảo vệ sự sống”, ngày 05/5/2017 Bệnh viện đa khoa huyện Tri Tôn có tổ chức buổi tuyên truyền Vệ sinh tay năm 2017. Dưới sự chủ tọa của Ban Giám đốc bệnh viện, cùng sự có mặt của Trưởng khoa/phòng và nhân viên đang công tác tại Bệnh viện đa khoa huyện Tri Tôn.

Hàng ngày có hệ thống mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn tại các khoa/phòng có thực hiện giám sát, nhắc nhở vệ sinh tay đúng theo 6 bước rửa và 5 thời điểm vệ sinh tay. Nhưng do thời gian chăm sóc hạn chế cộng thêm thực hiện thay đổi thao tác liên tục nên việc rửa tay đúng theo thời điểm quy định cho Tổ chức y tế còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ thực hiện đến giai đoạn hiện tại là 98,90% thực hiện đúng các bước vệ sinh tay, có 50,34% vệ sinh tay đúng thời điểm.

Trên đây là Buổi phát động chiến dịch vệ sinh tay của Bệnh viện đa khoa huyện Tri Tôn./.

 CNĐD. VÕ THỊ HẠNH            

Trưởng khoa KSNK              

Bệnh viện đa khoa huyện Tri Tôn